Việc xác định người thừa kế không phụ thuộc vào sổ hộ khẩu gia đình, mà sẽ phụ thuộc vào nội dung di chúc (nếu có) hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
Biên bản thỏa thuận chia tài sản thừa kế theo pháp luật giữa các thành viên trong gia đình phải được công chứng mới đầy đủ hiệu lực pháp luật. Biên bản họp gia đình có người làm chứng, có xác nhận của ủy ban nhân dân xã chỉ được coi là chứng thực chữ ký.
Nếu bố anh (chị) có di chúc để toàn bộ di sản cho con riêng thì anh (chị) không có quyền đòi chia di sản trừ trường hợp anh (chị) chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động...
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Không có di chúc; b) Di chúc không hợp pháp; c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan,...
Nguyện vọng chia thừa kế cho những ai của người để lại di sản được thông qua di chúc.
Trường hợp người chết không để lại di chúc, di sản để lại được chia theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế...
Pháp luật về thừa kế quy định về thời hiệu khởi hiện về thừa kế để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó
Do chưa thỏa thuận về việc phân chia thừa kế nên mảnh đất hiện vẫn được xác định là di sản thừa kế. Việc tự ý làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là trái quy định của pháp luật. Trong trường hợp này người thừa kế khác, có thể làm đơn khiếu nại...
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp...
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;...
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp di chúc không hợp pháp thì sẽ chia di sản thừa kế theo pháp luật, tức là di sản sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: Không có di chúc; Di chúc không hợp pháp.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này